Bấm vào hình để xem kích thước thật

So sánh kết quả điều trị phẫu thuật viêm ruột thừa bằng nội soi và mổ mở ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 09/2008 đến tháng 12/2008

Ngày đăng:  07/07/2010

 
Lượt xem: 9356

 

Vũ Trường Nhân*, Trương Anh Mậu*, Trần Vĩnh Hậu*

  

TÓM TẮT

Mục tiêu nghiên cứu: So sánh kết quả điều trị viêm ruột thừa bằng mổ nội soi và mổ mở tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 09/2008 đến 12/2009.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu mô tả loạt các trường hợp bệnh. Mẫu nghiên cứu gồm 101 trường hợp viêm ruột thừa được phẫu thuật tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 09/2008 đến 12/2008, trong đó có 51 trường hợp mổ nội soi, 50 trường hợp mổ mở. Tất cả bệnh nhi được tái khám ít nhất 1 lần trong vòng 3 tuần sau phẫu thuật. Sử dụng các test Student t, c2 hay Fisher's để so sánh các biến số giữa hai nhóm.

Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới, tuổi trung bình, trọng lượng, tình trạng sốt, số lượng bạch cầu giữa 2 nhóm. Nhóm mổ nội soi có 40 trường hợp (chiếm 78%) là viêm ruột thừa cấp, 11 trường hợp (chiếm 22%) là viêm ruột thừa vỡ và 10 trường hợp (chiếm 19,6%) là viêm phúc mạc toàn thể so với nhóm mổ mở lần lượt là 41 (chiếm 82%), 9 (chiếm 18%) và 6 (chiếm 12%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về phân loại ruột thừa viêm giữa 2 nhóm. Thời gian phẫu thuật của 2 nhóm mổ là tương đương nhau, 64,7 (± 2.6) phút trong nhóm mổ nội soi và 57,6(± 3.0) phút trong nhóm mổ mở. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian cho ăn lại của 2 nhóm 1,8(± 0,4) ngày trong nhóm mổ nội soi và 1,9 (± 2) ngày trong nhóm mổ mở. Có 3 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, 1 trường hợp tắc ruột trong nhóm mổ mở và 1 trường hợp tắc ruột trong nhóm mổ nội soi. Các trường hợp tắc ruột đều phải mổ lại. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mặt biến chứng giữa 2 nhóm.

 

Kết luận: Mổ nội soi ruột thừa ở trẻ em cho kết quả an toàn, hiệu quả, thời gian nằm viện ngắn, ít biến chứng nhiễm trùng và mang tính thẩm mỹ.

 

ABSTRACT

Outcome comparison between laparoscopic and open appendectomy for simple and perforated appendicitis in children

Truong Nhan Vu, Anh Mau Truong, Vinh Hau Tran

 

Objectives: Laparoscopic appendectomy is becoming popular for the treatment of simple and perforated appendicitis in children, but it remains more controversial, particularly in perforated cases. The purpose of this study was to compare the outcomes of laparoscopic (LA) and open appendectomy (OA) in children in our hospital.

Methods: 101 children with appendicitis from September to December 2008 were selected randomly to undergo either a laparoscopic (n = 51) or an open appendectomy (n = 50). All patients underwent at least 1 follow-up assessment 3 weeks after the operation. The prospective comparison between the 2 groups was performed.

Results: There were no significant differences between the 2 groups in sex, mean age, mean weight, presence of fever, mean leucocyte count. Operative description of appendices included 78.0% simple, 22.0% perforated in LA vs 82.0% simple, 18.0% perforated in OA (P = 0.617). There were 10 (19.6%) cases in LA group versus 6 (12.0%) cases in OA group with generalized peritonitis. Operative time (64.7 vs 57.6 min; P = 0.077), oral feeding time (1.8 vs 1.9 d; P = 0.681) were similar in the 2 groups. Mean duration of postoperative hospital stay was significantly shorter in LA group (5.7 vs 6.5 d; P = 0.041). Postoperative complications included 3 wound infection (OA), 2 small bowel obstruction (1 LA, 1 OA). There was no significant difference between the 2 groups in the complication rate (P = 0.162).

Conclusions: Laparoscopic appendectomy is a safe and effective procedure for appendicitis in children, especially perforated appendicitis, which has a shorter duration of hospital stay and a trend toward less postoperative infectious complications.

 

(*) Bệnh viện Nhi Đồng 2

    Tác giả chính: BS Vũ Trường Nhân - Khoa Ngoại Tổng hợp


 

Đăng bởi: BS Vũ Trường Nhân

[Trở về]

Các tin khác